Kinh tế
21 PHÚT ĐỌC

Điện hạt nhân tại Việt Nam (Phần 1): Những tín hiệu lạc quan

Việt Nam cần điện hạt nhân để giải quyết đồng thời hai bài toán “an ninh năng lượng” và “giảm phát thải”.

Nguyễn Quốc Anh 05/12/2024
Image
Một góc nhà máy điện hạt nhân Civaux, Pháp vào ngày 19/3/2024 - (C): Stephane Mahe/Reuters

Vào ngày 27/11, Phó Thủ tướng Nguyễn Hòa Bình đã trình Quốc hội Báo cáo đề nghị tiếp tục chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, vốn đã dừng 8 năm trước. Trước đó hai ngày, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm cho biết Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao với chủ trương tái khởi động chương trình điện hạt nhân và tiếp tục nghiên cứu dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. 

Những diễn biến trên cho thấy Việt Nam đã thật sự “hạ quyết tâm” trong việc phát triển điện hạt nhân để sớm đưa nguồn năng lượng này hòa vào lưới điện quốc gia.

Trên thực tế, điện hạt nhân không phải vấn đề mới ở Việt Nam. Vào năm 1995, việc cân nhắc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đã xuất hiện lần đầu tiên. Đến năm 2006, người đứng đầu Chính phủ khi đó là Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký quyết định phê duyệt “Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020”. Vào năm 2011, triển vọng điện hạt nhân của Việt Nam càng trở nên khả quan hơn, khi Nga và Nhật Bản đồng ý tài trợ và xây dựng các nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận, được dự kiến đưa vào vận hành năm 2020.

Tuy nhiên, đến năm 2016, dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan, kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận đã tạm thời bị gác lại. Bên cạnh mối quan ngại của công luận trong nước sau tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 tại Nhật Bản, hàng loạt thách thức kinh tế - xã hội như chi phí tăng cao, nhu cầu điện không đạt như dự kiến, các vấn đề công nghệ và diễn biến tình hình năng lượng thế giới khi đó đã khiến Việt Nam dừng theo đuổi điện hạt nhân. Từ đó, điện hạt nhân vẫn là “giấc mơ dang dở” của ngành năng lượng Việt Nam.

Bối cảnh thuận lợi

Tuy nhiên, so với lần “lỡ hẹn” vào năm 2016, bối cảnh để Việt Nam phát triển điện hạt nhân ở thời điểm hiện tại đã thuận lợi hơn rất nhiều. 

Về nội lực, Việt Nam đã có sẵn nguồn nhân lực là đội ngũ cán bộ kỹ thuật được đào tạo để vận hành dự án ở Ninh Thuận năm 2016. Sau khi đã tu nghiệp, trau dồi kinh nghiệm trong nhiều năm qua, các cán bộ, kỹ sư này có thể được gửi đi đào tạo bổ sung để vận hành các nhà máy điện hạt nhân trong tương lai. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực chất lượng cao này còn là kho tri thức quý giá để trao truyền lại cho các thế hệ cán bộ tiếp theo, tiếp tục kế thừa sự nghiệp phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam.

Ngoài ra, ngành nghiên cứu khoa học cơ bản về hạt nhân của Việt Nam cũng đã đạt nhiều thành tựu. Điển hình là Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt vừa kỷ niệm 40 năm thành lập, với hơn 70.000 giờ vận hành an toàn và được công nhận trong các lĩnh vực như sản xuất đồng vị phóng xạ, chế tạo thiết bị hạt nhân, quản lý chất thải hạt nhân. Những dữ kiện trên cho thấy Việt Nam có khả năng tiếp nhận chuyển giao các công nghệ hạt nhân tiên tiến từ các nước phát triển, đảm bảo hiệu suất cao và an toàn hơn so với các công nghệ truyền thống, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.

Về chính sách, Việt Nam cũng đã có một số nền tảng nhất định về cơ sở pháp lý đối với điện hạt nhân. Trong đó, phải kể đến Luật Năng lượng nguyên tử được Quốc hội thông qua vào năm 2008, tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy các hoạt động quản lý nhà nước và ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình tại Việt Nam. Qua thời gian, một số điều trong luật này đã không còn phù hợp, đòi hỏi nhiều sửa đổi bổ sung. Nhưng ít nhất, việc sửa đổi sẽ không tốn nhiều nguồn lực bằng với việc bắt đầu từ “con số 0”. Đặc biệt, với quyết tâm cao như hiện nay, việc sửa đổi luật để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển điện hạt nhân có thể sẽ sớm được Chính phủ xúc tiến triển khai.

Ngoài ra, quá trình nghiên cứu và lựa chọn địa điểm đặt nhà máy điện hạt nhân vốn tốn kém và mất thời gian, cũng đã được thực hiện xong. Để được lựa chọn, địa điểm cần hội tụ đủ các điều kiện cần thiết để đảm bảo an toàn như nền móng công trình, an toàn với thiên tai, đáp ứng hiệu quả về kinh tế và môi trường, cũng như được người dân địa phương chấp thuận. Để chọn Ninh Thuận như một vị trí “đắc địa” để đặt các nhà máy điện hạt nhân, Việt Nam đã tiến hành quá trình tìm kiếm, sàng lọc và lựa chọn từ gần 30 năm trước. Như vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể kế thừa và triển khai kết quả nghiên cứu và quy hoạch đã có sẵn, và việc này không tốn nguồn lực để nghiên cứu từ đầu.

Về ngoại lực, Việt Nam có nhiều cơ hội hợp tác quốc tế trong lĩnh vực điện hạt nhân. Trong đó, phải kể đến quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Liên bang Nga, một “cường quốc” về điện hạt nhân. Trên lĩnh vực điện hạt nhân, sự hỗ trợ Nga dành cho Việt Nam trải rộng trên nhiều phương diện, từ đào tạo nhân lực cho đến xây dựng lò phản ứng phục vụ nghiên cứu. Trong chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir Putin đến Việt Nam theo lời mời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 6 vừa qua, “ông chủ Điện Kremlin” khẳng định sẵn sàng giúp Việt Nam xây dựng ngành năng lượng nguyên tử, và cung cấp cho Hà Nội những công nghệ hiện đại nhất

Ngoài Nga, với các nước dẫn đầu thế giới về điện hạt nhân khác như Nhật Bản, Pháp hay Hàn Quốc, triển vọng hợp tác về điện hạt nhân của Việt Nam cũng đầy tiềm năng. Cụ thể, Nhật Bản là quốc gia duy nhất ngoài Nga cung cấp công nghệ nhà máy điện hạt nhân cho Việt Nam. Hai nước đã ký kết Hiệp định hợp tác phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình giữa vào năm 2011, và Nhật Bản cũng là nước hỗ trợ Việt Nam tối đa trong việc tư vấn và hỗ trợ vốn ODA để Việt Nam xây dựng dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2. Các công ty Hitachi hay Mitsubishi cũng cử chuyên gia sang Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực điện hạt nhân để chuẩn bị cho dự án ở Ninh Thuận, vốn từng được cân nhắc sử dụng công nghệ Nhật Bản. Nếu Việt Nam “tin tưởng” công nghệ Nhật Bản trong các dự án điện hạt nhân tương lai, Hà Nội có thể tiếp tục hợp tác với Tokyo trong việc đào tạo lại nguồn nhân lực sẵn có, vốn đã có kinh nghiệm tiếp cận các quy chuẩn công nghệ của Nhật Bản.

Trong khi đó, quan hệ Việt - Pháp trên lĩnh vực điện hạt nhân đã bắt đầu từ thỏa thuận vào năm 1996 giữa Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM) với Uỷ ban Năng lượng nguyên tử Pháp (CEA). Vào tháng 10/2024, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện, nhất trí thúc đẩy hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ hạt nhân dân sự, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng. Đặc biệt, Pháp cũng là nơi có một đội ngũ trí thức Việt Nam đang công tác trong lĩnh vực điện hạt nhân, tạo cơ sở thuận lợi để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm và công nghệ của Pháp, từ đó mở rộng những lựa chọn về công nghệ trong xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

So với các mối quan hệ vừa nêu, hợp tác Việt - Hàn trên lĩnh vực điện hạt nhân là chưa nhiều, nhưng sẽ có nhiều triển vọng hơn sau khi hai nước đã nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2022. Trong đó, dấu mốc đáng kể nhất là việc ký kết biên bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực hệ thống năng lượng hạt nhân tiên tiến giữa công ty Thủy điện và Điện hạt nhân Hàn Quốc (thuộc tập đoàn Điện lực Hàn Quốc) và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM) nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol đến Hà Nội vào tháng 6/2023. Gần đây, vào tháng 8, Đại sứ Hàn Quốc Choi Youngsam cho biết Hàn Quốc muốn phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam. 

Lựa chọn bắt buộc

Những điều kiện nội tại và ngoại tại đều tạo thuận lợi để Việt Nam phát triển điện hạt nhân; khi đó, nguồn năng lượng này là lựa chọn phù hợp cho quốc gia Đông Nam Á. Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, hơn cả phù hợp, việc phát triển điện hạt nhân nên là một “lựa chọn bắt buộc”, nhất là đối với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.

Trong những năm sắp tới, để đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, nhu cầu tiêu thụ điện được dự báo sẽ gia tăng đáng kể. Cụ thể, trong năm 2025, với mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6,5 đến 7%, nhu cầu điện được dự kiến sẽ tăng khoảng 12-13%, với tỷ lệ cứ 1% tăng trưởng kinh tế, thì nhu cầu điện tăng 1,5%. Trong những năm tiếp theo (giai đoạn 2025-2030), theo dự báo của Công ty Cổ phần Chứng khoán MB, nhu cầu điện sẽ tăng trưởng ở mức cao, đạt 9,3% “tăng trưởng kép hằng năm” (mức tăng trưởng đã tính đến hiệu ứng lãi kép, được viết tắt là CAGR). 

Theo Quy hoạch điện VIII, để đáp ứng đà tăng trưởng nhu cầu điện, đến năm 2030, Việt Nam phải tăng gấp đôi công suất phát điện so với hiện tại, và đến năm 2050 là gấp 5 lần. Cũng theo quy hoạch, để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam dựa phần lớn vào điện tái tạo (điện gió và điện mặt trời), với tỷ trọng chiếm gần 30% năm 2030, hơn 60% vào năm 2050 và điện hạt nhân không được đề cập. Tuy vậy, nếu không có điện hạt nhân, khả năng các nguồn điện hiện có trong quy hoạch (nhất là các dự án điện lớn, bao gồm thủy điện, than và khí đốt) đáp ứng các mục tiêu năng lượng của Việt Nam là không cao

Cụ thể, đối với nhiệt điện than, Việt Nam sẽ không xây dựng thêm các nhà máy mới sau năm 2030 và sẽ chấm dứt hoàn toàn nhiệt điện than vào năm 2050. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại đến 5 dự án nhiệt điện than, với tổng công suất 7,22 GW, dù đã được quy hoạch nhưng chậm tiến độ, và có nguy cơ phải chấm dứt thực hiện. Trong khi đó, với thủy điện, dư địa phát triển cho loại hình này gần như không còn. Hơn nữa, việc nâng công suất thủy điện lên 29.346 MW vào năm 2030 được cho là tiềm ẩn những rủi ro liên quan đến thiên tai, biến đổi khí hậu. Với nhiệt điện khí, nhất là khí đốt hóa lỏng (LNG), bản chất phụ thuộc vào giá nhiên liệu thế giới khiến việc khai thác nguồn năng lượng này trở nên bất ổn, không đảm bảo an ninh năng lượng. 

Trong khi đó, với các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời, triển vọng cũng không khả quan. Về bản chất, đây là các nguồn điện phụ thuộc vào môi trường bên ngoài, công suất phát điện không ổn định theo thời gian trong ngày, khó có thể đảm bảo nhu cầu điện trong giờ cao điểm. Trong tương lai gần, thậm chí, tiềm năng của các loại hình năng lượng này còn bị hoài nghi, khi giá nguyên liệu đầu vào (các khoáng sản chủ chốt - critical minerals) để sản xuất các thiết bị điện gió và mặt trời dự kiến sẽ biến động, do ảnh hưởng từ các chính sách bảo hộ trong căng thẳng thương mại Mỹ - Trung. Điển hình là việc Mỹ áp thuế 25% đối với nam châm đất hiếm và các khoáng sản chủ chốt của Trung Quốc vào tháng 5/2024. Hệ quả là giá thành sản xuất điện gió và điện mặt trời có thể sẽ gia tăng, khiến hai loại năng lượng này có nguy cơ bị “chững lại”.

Như vậy, khi các nguồn “điện nền” như than, thủy điện hay khí đốt đều thiếu tin cậy về dài hạn và các nguồn điện tái tạo đang gặp nhiều bấp bênh thì điện hạt nhân là “lời giải” cho mọi khó khăn mà các nguồn năng lượng khác đang gặp phải. 

Bởi lẽ, điện hạt nhân là nguồn năng lượng dồi dào, với mỗi kilogram uranium có thể tạo ra năng lượng gấp 20.000 lần so với cùng trọng lượng than đá. Các nhà máy điện hạt nhân cũng có thể vận hành linh hoạt, đáp ứng những biến động về nhu cầu năng lượng và mang lại sự ổn định cho lưới điện. 

Điện hạt nhân còn có thể có giá thành rẻ, ổn định và không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị quốc tế như giá dầu, khí đốt và than đá. Bởi, chi phí nhiên liệu hạt nhân (nuclear fuel) chỉ chiếm một phần nhỏ trong chi phí vận hành nhà máy điện hạt nhân, phần còn lại là các chi phí cố định. Để so sánh, đối với các nhà máy nhiệt điện than, chi phí nhiên liệu than đã chiếm tới 60-70%. Ngoài ra, điện hạt nhân còn được coi là “năng lượng sạch” vì phát thải khí nhà kính gần như bằng không. Theo đó, mỗi kWh điện hạt nhân chỉ phát thải khoảng 6 gram khí CO2. Con số này ít hơn than đá 70 lần, khí đốt 40 lần, điện mặt trời 4 lần, thủy điện 2 lần và bằng điện gió.

Ở thời điểm hiện tại, điện hạt nhân là lời giải phù hợp nhất cho bài toán năng lượng của Việt Nam, và chưa bao giờ chủ đề này lại được bàn luận “sôi nổi” như thế ở quốc gia Đông Nam Á. Từ nghị trường quốc hội, cho đến phát biểu của lãnh đạo cấp cao, chính giới Việt Nam đều đã đi đến kết luận chung: “Phải làm điện hạt nhân!” 

Tuy nhiên, “nói luôn dễ hơn làm”, và “không có điều gì tốt lại đến một cách dễ dàng”. Vậy, để mục tiêu điện hạt nhân được hiện thực hóa, các nhà lãnh đạo quốc gia Đông Nam Á cần phải vượt qua những thách thức gì? Vấn đề trên và những nội dung xoay quanh sẽ được gửi đến quý bạn đọc trong bài viết tiếp theo: “Điện hạt nhân tại Việt Nam (Phần 2): Đặt những câu hỏi đúng!”.

Vào ngày 27/11, Phó Thủ tướng Nguyễn Hòa Bình đã trình Quốc hội Báo cáo đề nghị tiếp tục chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, vốn đã dừng 8 năm trước. Trước đó hai ngày, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm cho biết Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cao với chủ trương tái khởi động chương trình điện hạt nhân và tiếp tục nghiên cứu dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. 

Những diễn biến trên cho thấy Việt Nam đã thật sự “hạ quyết tâm” trong việc phát triển điện hạt nhân để sớm đưa nguồn năng lượng này hòa vào lưới điện quốc gia.

Trên thực tế, điện hạt nhân không phải vấn đề mới ở Việt Nam. Vào năm 1995, việc cân nhắc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đã xuất hiện lần đầu tiên. Đến năm 2006, người đứng đầu Chính phủ khi đó là Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký quyết định phê duyệt “Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020”. Vào năm 2011, triển vọng điện hạt nhân của Việt Nam càng trở nên khả quan hơn, khi Nga và Nhật Bản đồng ý tài trợ và xây dựng các nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận, được dự kiến đưa vào vận hành năm 2020.

Tuy nhiên, đến năm 2016, dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan, kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận đã tạm thời bị gác lại. Bên cạnh mối quan ngại của công luận trong nước sau tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 tại Nhật Bản, hàng loạt thách thức kinh tế - xã hội như chi phí tăng cao, nhu cầu điện không đạt như dự kiến, các vấn đề công nghệ và diễn biến tình hình năng lượng thế giới khi đó đã khiến Việt Nam dừng theo đuổi điện hạt nhân. Từ đó, điện hạt nhân vẫn là “giấc mơ dang dở” của ngành năng lượng Việt Nam.

Bối cảnh thuận lợi

Tuy nhiên, so với lần “lỡ hẹn” vào năm 2016, bối cảnh để Việt Nam phát triển điện hạt nhân ở thời điểm hiện tại đã thuận lợi hơn rất nhiều. 

Về nội lực, Việt Nam đã có sẵn nguồn nhân lực là đội ngũ cán bộ kỹ thuật được đào tạo để vận hành dự án ở Ninh Thuận năm 2016. Sau khi đã tu nghiệp, trau dồi kinh nghiệm trong nhiều năm qua, các cán bộ, kỹ sư này có thể được gửi đi đào tạo bổ sung để vận hành các nhà máy điện hạt nhân trong tương lai. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực chất lượng cao này còn là kho tri thức quý giá để trao truyền lại cho các thế hệ cán bộ tiếp theo, tiếp tục kế thừa sự nghiệp phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam.

Ngoài ra, ngành nghiên cứu khoa học cơ bản về hạt nhân của Việt Nam cũng đã đạt nhiều thành tựu. Điển hình là Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt vừa kỷ niệm 40 năm thành lập, với hơn 70.000 giờ vận hành an toàn và được công nhận trong các lĩnh vực như sản xuất đồng vị phóng xạ, chế tạo thiết bị hạt nhân, quản lý chất thải hạt nhân. Những dữ kiện trên cho thấy Việt Nam có khả năng tiếp nhận chuyển giao các công nghệ hạt nhân tiên tiến từ các nước phát triển, đảm bảo hiệu suất cao và an toàn hơn so với các công nghệ truyền thống, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.

Về chính sách, Việt Nam cũng đã có một số nền tảng nhất định về cơ sở pháp lý đối với điện hạt nhân. Trong đó, phải kể đến Luật Năng lượng nguyên tử được Quốc hội thông qua vào năm 2008, tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy các hoạt động quản lý nhà nước và ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình tại Việt Nam. Qua thời gian, một số điều trong luật này đã không còn phù hợp, đòi hỏi nhiều sửa đổi bổ sung. Nhưng ít nhất, việc sửa đổi sẽ không tốn nhiều nguồn lực bằng với việc bắt đầu từ “con số 0”. Đặc biệt, với quyết tâm cao như hiện nay, việc sửa đổi luật để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển điện hạt nhân có thể sẽ sớm được Chính phủ xúc tiến triển khai.

Ngoài ra, quá trình nghiên cứu và lựa chọn địa điểm đặt nhà máy điện hạt nhân vốn tốn kém và mất thời gian, cũng đã được thực hiện xong. Để được lựa chọn, địa điểm cần hội tụ đủ các điều kiện cần thiết để đảm bảo an toàn như nền móng công trình, an toàn với thiên tai, đáp ứng hiệu quả về kinh tế và môi trường, cũng như được người dân địa phương chấp thuận. Để chọn Ninh Thuận như một vị trí “đắc địa” để đặt các nhà máy điện hạt nhân, Việt Nam đã tiến hành quá trình tìm kiếm, sàng lọc và lựa chọn từ gần 30 năm trước. Như vậy, Việt Nam hoàn toàn có thể kế thừa và triển khai kết quả nghiên cứu và quy hoạch đã có sẵn, và việc này không tốn nguồn lực để nghiên cứu từ đầu.

Về ngoại lực, Việt Nam có nhiều cơ hội hợp tác quốc tế trong lĩnh vực điện hạt nhân. Trong đó, phải kể đến quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Liên bang Nga, một “cường quốc” về điện hạt nhân. Trên lĩnh vực điện hạt nhân, sự hỗ trợ Nga dành cho Việt Nam trải rộng trên nhiều phương diện, từ đào tạo nhân lực cho đến xây dựng lò phản ứng phục vụ nghiên cứu. Trong chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir Putin đến Việt Nam theo lời mời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 6 vừa qua, “ông chủ Điện Kremlin” khẳng định sẵn sàng giúp Việt Nam xây dựng ngành năng lượng nguyên tử, và cung cấp cho Hà Nội những công nghệ hiện đại nhất

Ngoài Nga, với các nước dẫn đầu thế giới về điện hạt nhân khác như Nhật Bản, Pháp hay Hàn Quốc, triển vọng hợp tác về điện hạt nhân của Việt Nam cũng đầy tiềm năng. Cụ thể, Nhật Bản là quốc gia duy nhất ngoài Nga cung cấp công nghệ nhà máy điện hạt nhân cho Việt Nam. Hai nước đã ký kết Hiệp định hợp tác phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình giữa vào năm 2011, và Nhật Bản cũng là nước hỗ trợ Việt Nam tối đa trong việc tư vấn và hỗ trợ vốn ODA để Việt Nam xây dựng dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2. Các công ty Hitachi hay Mitsubishi cũng cử chuyên gia sang Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực điện hạt nhân để chuẩn bị cho dự án ở Ninh Thuận, vốn từng được cân nhắc sử dụng công nghệ Nhật Bản. Nếu Việt Nam “tin tưởng” công nghệ Nhật Bản trong các dự án điện hạt nhân tương lai, Hà Nội có thể tiếp tục hợp tác với Tokyo trong việc đào tạo lại nguồn nhân lực sẵn có, vốn đã có kinh nghiệm tiếp cận các quy chuẩn công nghệ của Nhật Bản.

Trong khi đó, quan hệ Việt - Pháp trên lĩnh vực điện hạt nhân đã bắt đầu từ thỏa thuận vào năm 1996 giữa Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM) với Uỷ ban Năng lượng nguyên tử Pháp (CEA). Vào tháng 10/2024, hai nước đã nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện, nhất trí thúc đẩy hợp tác trong đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ hạt nhân dân sự, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng. Đặc biệt, Pháp cũng là nơi có một đội ngũ trí thức Việt Nam đang công tác trong lĩnh vực điện hạt nhân, tạo cơ sở thuận lợi để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm và công nghệ của Pháp, từ đó mở rộng những lựa chọn về công nghệ trong xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

So với các mối quan hệ vừa nêu, hợp tác Việt - Hàn trên lĩnh vực điện hạt nhân là chưa nhiều, nhưng sẽ có nhiều triển vọng hơn sau khi hai nước đã nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2022. Trong đó, dấu mốc đáng kể nhất là việc ký kết biên bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực hệ thống năng lượng hạt nhân tiên tiến giữa công ty Thủy điện và Điện hạt nhân Hàn Quốc (thuộc tập đoàn Điện lực Hàn Quốc) và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM) nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol đến Hà Nội vào tháng 6/2023. Gần đây, vào tháng 8, Đại sứ Hàn Quốc Choi Youngsam cho biết Hàn Quốc muốn phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam. 

Lựa chọn bắt buộc

Những điều kiện nội tại và ngoại tại đều tạo thuận lợi để Việt Nam phát triển điện hạt nhân; khi đó, nguồn năng lượng này là lựa chọn phù hợp cho quốc gia Đông Nam Á. Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, hơn cả phù hợp, việc phát triển điện hạt nhân nên là một “lựa chọn bắt buộc”, nhất là đối với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.

Trong những năm sắp tới, để đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, nhu cầu tiêu thụ điện được dự báo sẽ gia tăng đáng kể. Cụ thể, trong năm 2025, với mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6,5 đến 7%, nhu cầu điện được dự kiến sẽ tăng khoảng 12-13%, với tỷ lệ cứ 1% tăng trưởng kinh tế, thì nhu cầu điện tăng 1,5%. Trong những năm tiếp theo (giai đoạn 2025-2030), theo dự báo của Công ty Cổ phần Chứng khoán MB, nhu cầu điện sẽ tăng trưởng ở mức cao, đạt 9,3% “tăng trưởng kép hằng năm” (mức tăng trưởng đã tính đến hiệu ứng lãi kép, được viết tắt là CAGR). 

Theo Quy hoạch điện VIII, để đáp ứng đà tăng trưởng nhu cầu điện, đến năm 2030, Việt Nam phải tăng gấp đôi công suất phát điện so với hiện tại, và đến năm 2050 là gấp 5 lần. Cũng theo quy hoạch, để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam dựa phần lớn vào điện tái tạo (điện gió và điện mặt trời), với tỷ trọng chiếm gần 30% năm 2030, hơn 60% vào năm 2050 và điện hạt nhân không được đề cập. Tuy vậy, nếu không có điện hạt nhân, khả năng các nguồn điện hiện có trong quy hoạch (nhất là các dự án điện lớn, bao gồm thủy điện, than và khí đốt) đáp ứng các mục tiêu năng lượng của Việt Nam là không cao

Cụ thể, đối với nhiệt điện than, Việt Nam sẽ không xây dựng thêm các nhà máy mới sau năm 2030 và sẽ chấm dứt hoàn toàn nhiệt điện than vào năm 2050. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại đến 5 dự án nhiệt điện than, với tổng công suất 7,22 GW, dù đã được quy hoạch nhưng chậm tiến độ, và có nguy cơ phải chấm dứt thực hiện. Trong khi đó, với thủy điện, dư địa phát triển cho loại hình này gần như không còn. Hơn nữa, việc nâng công suất thủy điện lên 29.346 MW vào năm 2030 được cho là tiềm ẩn những rủi ro liên quan đến thiên tai, biến đổi khí hậu. Với nhiệt điện khí, nhất là khí đốt hóa lỏng (LNG), bản chất phụ thuộc vào giá nhiên liệu thế giới khiến việc khai thác nguồn năng lượng này trở nên bất ổn, không đảm bảo an ninh năng lượng. 

Trong khi đó, với các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời, triển vọng cũng không khả quan. Về bản chất, đây là các nguồn điện phụ thuộc vào môi trường bên ngoài, công suất phát điện không ổn định theo thời gian trong ngày, khó có thể đảm bảo nhu cầu điện trong giờ cao điểm. Trong tương lai gần, thậm chí, tiềm năng của các loại hình năng lượng này còn bị hoài nghi, khi giá nguyên liệu đầu vào (các khoáng sản chủ chốt - critical minerals) để sản xuất các thiết bị điện gió và mặt trời dự kiến sẽ biến động, do ảnh hưởng từ các chính sách bảo hộ trong căng thẳng thương mại Mỹ - Trung. Điển hình là việc Mỹ áp thuế 25% đối với nam châm đất hiếm và các khoáng sản chủ chốt của Trung Quốc vào tháng 5/2024. Hệ quả là giá thành sản xuất điện gió và điện mặt trời có thể sẽ gia tăng, khiến hai loại năng lượng này có nguy cơ bị “chững lại”.

Như vậy, khi các nguồn “điện nền” như than, thủy điện hay khí đốt đều thiếu tin cậy về dài hạn và các nguồn điện tái tạo đang gặp nhiều bấp bênh thì điện hạt nhân là “lời giải” cho mọi khó khăn mà các nguồn năng lượng khác đang gặp phải. 

Bởi lẽ, điện hạt nhân là nguồn năng lượng dồi dào, với mỗi kilogram uranium có thể tạo ra năng lượng gấp 20.000 lần so với cùng trọng lượng than đá. Các nhà máy điện hạt nhân cũng có thể vận hành linh hoạt, đáp ứng những biến động về nhu cầu năng lượng và mang lại sự ổn định cho lưới điện. 

Điện hạt nhân còn có thể có giá thành rẻ, ổn định và không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị quốc tế như giá dầu, khí đốt và than đá. Bởi, chi phí nhiên liệu hạt nhân (nuclear fuel) chỉ chiếm một phần nhỏ trong chi phí vận hành nhà máy điện hạt nhân, phần còn lại là các chi phí cố định. Để so sánh, đối với các nhà máy nhiệt điện than, chi phí nhiên liệu than đã chiếm tới 60-70%. Ngoài ra, điện hạt nhân còn được coi là “năng lượng sạch” vì phát thải khí nhà kính gần như bằng không. Theo đó, mỗi kWh điện hạt nhân chỉ phát thải khoảng 6 gram khí CO2. Con số này ít hơn than đá 70 lần, khí đốt 40 lần, điện mặt trời 4 lần, thủy điện 2 lần và bằng điện gió.

Ở thời điểm hiện tại, điện hạt nhân là lời giải phù hợp nhất cho bài toán năng lượng của Việt Nam, và chưa bao giờ chủ đề này lại được bàn luận “sôi nổi” như thế ở quốc gia Đông Nam Á. Từ nghị trường quốc hội, cho đến phát biểu của lãnh đạo cấp cao, chính giới Việt Nam đều đã đi đến kết luận chung: “Phải làm điện hạt nhân!” 

Tuy nhiên, “nói luôn dễ hơn làm”, và “không có điều gì tốt lại đến một cách dễ dàng”. Vậy, để mục tiêu điện hạt nhân được hiện thực hóa, các nhà lãnh đạo quốc gia Đông Nam Á cần phải vượt qua những thách thức gì? Vấn đề trên và những nội dung xoay quanh sẽ được gửi đến quý bạn đọc trong bài viết tiếp theo: “Điện hạt nhân tại Việt Nam (Phần 2): Đặt những câu hỏi đúng!”.

Từ khoá: điện hạt nhân năng lượng hạt nhân giảm phát thải an ninh năng lượng Việt Nam

BÀI LIÊN QUAN